Năm 1936, khi còn học trung học Pellerin, nhạc sĩ Thu Hồ đã là ca sĩ và lần đầu tiên đi hát tại hội chợ Huế với bài "La chanson du gondolier". Sau đó, ông học nhạc lý với Trần Văn Lý (là trưởng ban nhạc hoàng gia Huế).
Năm 1938, làm trưởng ga hỏa xa luân phiên rồi làm thư ký bút toán ngân hàng Đông Dương. Năm 1943, khi làm trưởng ga xe lửa Dầu Giây, ông viết nhạc phẩm đầu tay "Quê Mẹ". Năm 1947, ông gia nhập ban Thần Kinh Nhạc Đoàn khi ban này vừa mới ra đời với sự cộng tác của ban nhạc Trần văn Lý và các ca sĩ như Minh Diệu, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Tôn Thất Sở... Năm 1948, Đài Phát Thanh Pháp Á mở thêm mục Tân nhạc Việt Nam, Thu Hồ được đài mời cộng tác.
Sau khi Đài Phát Thanh Pháp Á được chuyển giao lại cho chính quyền để trở thành Đài Phát Thanh Saigon, ông vẫn tiếp tục công việc của mình rồi sau đó cộng tác thêm với Đài Quân Đội. Trong thời gian này, Thu Hồ có mặt ở nhiều nơi vì ngoài phạm vi ca nhạc sĩ, ông còn là một nhà soạn kịch nổi tiếng thời đó và đồng thời cũng là một diễn viên có hạng.
Ông là diễn viên chính trong nhiều vở kịch do chính ông soạn như "Hai chàng một áo" và "Thầy lang bất đắc dĩ". Về kịch ngắn và kịch dài, ông đã soạn hơn 100 vở mà một số lớn đã được ban Thẩm Thúy Hằng mua bản quyền để trình diễn trên Đài Truyền Hình Việt Nam VNTV. Năm 1954, Thu Hồ gia nhập Quân đội và được trao giữ chức vụ Trưởng ban Tuyên truyền lưu động Đệ I Quân khu, đi khắp đó đây để ủy lạo binh sĩ.
Trong dịp này ông có viết bài "Khúc ca Đồng Tháp" với phần lời ca của Trọng Danh. Năm 1957, ông gia nhập ban văn nghệ Vì Dân của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Từ năm 1959 đến năm 1970, ông là giáo sư Âm nhạc các trường Trung học tư thục nổi tiếng ở Sài Gòn như Nguyễn Bá Tòng, Thánh Thomas, Thiên Phước, Nguyễn Trường Tộ... Nhạc sĩ Thu Hồ là một trong những nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên được kết nạp thành viên của Hội nhạc sĩ quốc tế S.A.C.E.M (trụ sở tại Pháp).
Về tôn giáo, ông là một con chiên ngoan đạo, từng là một thành viên trong ủy ban sáng lập giáo xứ Fatima - Bình Triệu nơi ông cư ngụ. Sau năm 1975, ông còn kẹt lại Việt Nam cho đến năm 1991 mới được bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ban đầu, ông cư ngụ tại San Diego, 2 năm sau ông dời về Santa Ana sống với cô con gái là ca sĩ Mỹ Huyền.
Năm 1993, ông cùng với Đỗ Đức Hậu được Hội Thi sĩ Quốc tế (ISP) bầu là Đại sứ thi ca hòa bình trong Hội nghị Thơ Quốc tế họp tại thủ đô Washington. Đây là chức vụ cao quý nhất của Hội dành cho các thi sĩ ngoại quốc về tham dự Hội nghị.
Hội này có hơn 100 ngàn nhà thơ đại diện cho Hoa Kỳ và 41 quốc gia trên toàn thế giới. Ông mất ngày 19/5/2000 tại thành phố Westminster, Nam California, hưởng thọ 81 tuổi.
Ánh bình minh (tập thơ) Bên bờ sông Dịch (thơ Tố Như) Bến sang ngang Bức tranh quê Chiều Hương Giang Chiều quê Con sẽ về Cô gái sông Hương Cô nữ sinh Đồng Khánh Dân làng đi cấy Đoàn quân ra biên cương |
Đoàn trai Việt Gió đồng hương quê Hoa tàn Kẻ ở người đi Khúc ca Đồng Tháp (lời Trọng Danh) Khúc ca thôn dã Khúc ca trên đường về Kiếp nghèo Mái tóc em gái Gia Long Mơ bóng chàng về Mùa gặt mới |
Mùa lúa chín Người ở kẻ đi Nhớ nhau Nếu anh là lính chiến Quê anh Quê mẹ Vọng cô thôn Sầu ly biệt Sóc Trăng mến yêu Tà áo Trưng Vương Thuyền lạc hướng |
Tiếc thương mẹ Việt Nam Tiếng sáo chiều quê Tiếng vang miền Trung Tím cả rừng chiều Trăng huyền diệu Trăng Sài Gòn Buồn không em (đồng tác giả với Lê Dinh) Cánh nhạn về (đồng tác giả với Mạnh Phát) Em gái bến Thanh Hà (đồng tác giả với Mạnh Phát) Người ấy là em (đồng tác giả với Mạnh Phát) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét