Nhạc sỹ HOÀNG THI THƠ
Hoàng Thi Thơ (sinh 16 tháng 7 năm 1929 - mất 23 tháng 9 năm 2001) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông nổi tiếng tại miền Nam trước 1975 với những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt. Một số bút hiệu khác của ông là Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu Phong.
Sau năm 1975, tại Việt Nam, ông cùng với nhạc sĩ Phạm Duy là hai người bị cấm về nhân thân (cấm toàn bộ tác phẩm), đến đầu năm 2009, một số bài hát của ông mới được Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép phổ biến trở lại.
Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 tại làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ Hoàng Hữu, một dòng họ khoa bảng có tiếng tăm ở đất Quảng Trị.
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên Facebook
Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 tại làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ Hoàng Hữu, một dòng họ khoa bảng có tiếng tăm ở đất Quảng Trị.
Sau Cách mạng tháng Tám, Hoàng Thi Thơ gia nhập Đoàn Văn nghệ Quảng Trị như một diễn viên ca kịch nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba làm trưởng đoàn.
Tháng 12 năm 1946, Hoàng Thi Thơ khi đang tham gia tuyên truyền cùng nhạc sĩ Trần Hoàn ở Huế thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau khi Huế thất thủ, ông trở ra Vinh theo đề nghị của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Tháng 5 năm 1947, ông bắt đầu làm báo, viết văn, trở thành phóng viên và biên tập viên cho tờ nhật báo Cứu quốc của Việt Minh. Tháng 9 năm 1948, ông trở lại Huế, tiếp tục hoàn thành chương trình trung học ở Trường Khải Định (về sau trường dời ra Hà Tĩnh và đổi tên thành Trường Huỳnh Thúc Kháng).
Sau khi học xong Tú tài, tháng 10 năm 1950, ông vào đại học tại trường Dự bị đại học Liên khu 3 và 4 tại Thanh Hóa, theo khoa Văn-Triết. Cuối năm 1952, ông bị Pháp bắt trong một chuyến về thăm gia đình. Sau hiệp định Genève, ông được tự do và vào Sài Gòn sống, dạy sinh ngữ Anh - Pháp ở các trường tư thục và theo nghề viết nhạc, hoạt động văn nghệ. Năm 1957, ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội tại rạp Thống Nhất Sài Gòn. Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà hàng Maxim. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến tranh Chính trị Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn...
Tháng 4 năm 1975, đoàn văn nghệ của ông đang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975. Ông không thể trở về nước được và từ đó phải định cư ở Hoa Kỳ. Ông có về Việt Nam 2 lần kể từ năm 1993.
Sáng Chủ Nhật 23 tháng 9 năm 2001, ông qua đời một cách thanh bình tại nhà riêng ở Glendale, California trong khi chờ vợ làm một món cá mà ông thích. Ông được an táng tại vườn Vĩnh Cửu - nghĩa trang Peek Family, Quận Cam.
Mộ của ông nằm ở nhà quàn Heritage Memorial Service, 17712 Beach Boulevard, Huntington Beach, Hoa Kỳ. Thời kỳ đi kháng chiến, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã có quan hệ tình cảm với Trương Tân Nhân, một người bạn học cùng trường. Về sau khi ông bỏ kháng chiến về thành và không thể trở lại, bà Tân Nhân lúc đó đã mang thai. Sau hiệp định Genève, bà ở lại miền Bắc và tiếp tục sự nghiệp ca hát. Người con trai của hai người mang tên Lê Khánh Hoài (lấy theo họ người chồng sau của bà), hiện đang hoạt động trong lĩnh vực kịch nghệ và điện ảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
. Tháng 9 năm 1957, ông lập gia đình với ca sĩ Thúy Nga và có 4 người con: 3 trai 1 gái. Trong đó, người con trưởng là Hoàng Thi Thi, vừa là nhạc sĩ vừa là kỹ sư. Ngoài ra ông còn một người con nuôi là Hoàng Thi Thao, người cháu gọi ông bằng chú và cũng là người theo sát chân ông trong nhiều năm hoạt động văn nghệ.
Tháng 12 năm 1946, Hoàng Thi Thơ khi đang tham gia tuyên truyền cùng nhạc sĩ Trần Hoàn ở Huế thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau khi Huế thất thủ, ông trở ra Vinh theo đề nghị của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Tháng 5 năm 1947, ông bắt đầu làm báo, viết văn, trở thành phóng viên và biên tập viên cho tờ nhật báo Cứu quốc của Việt Minh. Tháng 9 năm 1948, ông trở lại Huế, tiếp tục hoàn thành chương trình trung học ở Trường Khải Định (về sau trường dời ra Hà Tĩnh và đổi tên thành Trường Huỳnh Thúc Kháng).
Sau khi học xong Tú tài, tháng 10 năm 1950, ông vào đại học tại trường Dự bị đại học Liên khu 3 và 4 tại Thanh Hóa, theo khoa Văn-Triết. Cuối năm 1952, ông bị Pháp bắt trong một chuyến về thăm gia đình. Sau hiệp định Genève, ông được tự do và vào Sài Gòn sống, dạy sinh ngữ Anh - Pháp ở các trường tư thục và theo nghề viết nhạc, hoạt động văn nghệ. Năm 1957, ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội tại rạp Thống Nhất Sài Gòn. Năm 1961, ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm hơn 100 nghệ sĩ tên tuổi và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu cũng như nhiều thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Năm 1967, ông thành lập tiếp Đoàn Văn Nghệ Maxim, gồm 70 diễn viên ca-vũ-nhạc-kịch, tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch đặc biệt tại nhà hàng Maxim. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất được Bộ Thông tin và Tổng cục Chiến tranh Chính trị Việt Nam Cộng hòa nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam sang Châu Âu trình diễn...
Tháng 4 năm 1975, đoàn văn nghệ của ông đang lưu diễn ở Nhật Bản thì xảy ra sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975. Ông không thể trở về nước được và từ đó phải định cư ở Hoa Kỳ. Ông có về Việt Nam 2 lần kể từ năm 1993.
Sáng Chủ Nhật 23 tháng 9 năm 2001, ông qua đời một cách thanh bình tại nhà riêng ở Glendale, California trong khi chờ vợ làm một món cá mà ông thích. Ông được an táng tại vườn Vĩnh Cửu - nghĩa trang Peek Family, Quận Cam.
Mộ của ông nằm ở nhà quàn Heritage Memorial Service, 17712 Beach Boulevard, Huntington Beach, Hoa Kỳ. Thời kỳ đi kháng chiến, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã có quan hệ tình cảm với Trương Tân Nhân, một người bạn học cùng trường. Về sau khi ông bỏ kháng chiến về thành và không thể trở lại, bà Tân Nhân lúc đó đã mang thai. Sau hiệp định Genève, bà ở lại miền Bắc và tiếp tục sự nghiệp ca hát. Người con trai của hai người mang tên Lê Khánh Hoài (lấy theo họ người chồng sau của bà), hiện đang hoạt động trong lĩnh vực kịch nghệ và điện ảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh.
. Tháng 9 năm 1957, ông lập gia đình với ca sĩ Thúy Nga và có 4 người con: 3 trai 1 gái. Trong đó, người con trưởng là Hoàng Thi Thi, vừa là nhạc sĩ vừa là kỹ sư. Ngoài ra ông còn một người con nuôi là Hoàng Thi Thao, người cháu gọi ông bằng chú và cũng là người theo sát chân ông trong nhiều năm hoạt động văn nghệ.
2000 đêm đau thương Ai buồn hơn ai Ai nhớ chăng ai Bài ca dân nghèo Bài ca đoạn trường Bài thơ cuối cùng Bài thơ má núng đồng tiền Bao giờ trở lại Biết đâu tìm Biết thưở nào nguôi Bóng hồng Việt Nam Cành hoa trước gió Các anh về Cái trâm em cài Chiếc quạt Xuân Hương Chiều cố đô Chiều mưa viễn xứ Chiến sĩ hành Chim vàng trên nón sắt Chuyện tình cô lái đò bến Hạ Chuyện tình Lộng Ngọc Chuyện tình người trinh nữ tên Thi Chúng mình Chủ nhật xám Con tim và nước mắt Còn nhớ hay quên Dậy thì Diễm tình Dù xa xôi vẫn thấy rất gần Duyên quê Đám cưới trên đường quê Đành quên sao Đêm buồn Đêm cuối cùng Điệu buồn dang dở Điệu lý cò bay Đời sầu của ve |
Đưa em qua cánh đồng vàng Đưa em xuống thuyền Đừng nói với anh Đường xưa lối cũ Em là nữ hoàng Em như làn mây Em về thăm lại quê anh Gạo trắng trăng thanh Gặp lại người yêu Gặp nhau Gặp nhau giữa trời lưu lạc Giã từ mẹ Giây phút chạnh lòng Giọt lệ bên bờ biển Đông Giọt sầu từ lầu Hoàng Hạc Góc trời của ta Gót hồng trên con đường đất Hình ảnh người không đợi Hoa hồng một đóa Hỏi người còn nhớ đến ta Khi người lính trở về quê hương Khi tình yêu đến Khúc hát chia tay Kinh cầu tình yêu Kinh chiều Lá vàng tượng trắng trong vườn lục xâm Lệ buồn (Tình hồng số 7) Lời hát tạ ơn Lời người ra đi Lời người ở lại Lời thề của loài hoa trắng Mái tranh chiều Màu hoa thiên lý Mặt trời lại sáng quê hương Mối tình bất diệt Mộng hồng Một lần cuối |
Một miếng trầu duyên Một thoáng em về Mời lên hái đóa hoa rừng Mùa thu Đông Kinh Múc ánh trăng vàng Ngày buồn trôi qua ngày vui phải tới Ngày vui lý tưởng Ngày trọng đại (trường ca) Người cô đơn (nhạc phim cùng tên) Người nghệ sĩ mù Nhạc vọng thôn chiều Nhớ thành đô 1963 Như cánh phù du Những ai chưa về Những ngày thơ mộng Những vòng hoa trắng Nếu một ngày kia Niềm đau của cát Niềm đau của Thúy Ô kìa đời bỗng dưng vui Ôi chưa kịp nói với nhau một lời Phố chiều Phút đầu tiên Quê hương ta Rồi một chiều kia Rồi một ngày Rong chơi cuối trời quên lãng Rước tình về với quê hương Ruộng lúa nương dâu Sao Sống chết với nhau Súng ơi Ta dạy cho con Tà áo cưới Tạ tình Tại sao Tâm tình gửi Huế Tango nhớ |
Thiên đường của ta Thôi chia ly từ đây Thôn trăng mở hội trăng tròn Thị trấn đìu hiu Thục Lan, giọt nước mắt da vàng Thúy Tìm anh Tin ngày mai đến Tin về đô thị Tình anh Tình anh tình em Tình ca điên Tình ca trên lúa Tình dang dở Tình đêm liên hoan Tình gần tình xa Tình mùa hoa đào Tình sầu biên giới Tình ta với mình Tình vỡ Tình yêu tuyệt vời 2 Tóc thề chấm vai Tôi nhớ tên anh Tôi yêu Thúy Trái tim Việt Nam Trăng rụng xuống cầu Trời quê hương ta xanh Túp lều lý tưởng Vần thơ thương nhớ Vết chân đà điểu Việt Nam ơi ngày vui đã tới Việt Nam như đóa hoa xinh Xây nhà bên suối Xe hoa một chiếc Xuân chết trong lòng tôi Yêu mãi còn yêu |
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên Facebook
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét